Ngôi chùa cổ nhất giữa biển khơi
Là một ngôi chùa lớn nhất trên đảo Phú Quý,
Linh Quang tự không chỉ được công nhận là di tích văn hoá quốc gia, mà còn là
nơi linh thiêng chứa nhiều câu chuyện huyền bí về tín ngưỡng nằm giữa biển
khơi!
Vào giữa thế kỉ XVIII, một trận hoả hoạn đã
thiêu rụi chùa, làm cháy hết các tượng phật cổ bằng gỗ. Lần khuất theo năm
tháng chiến tranh, nay chùa chỉ còn 7 tượng Quan âm bằng đồng. Dấu tích của
những tượng phật bị cháy vẫn còn giữ nguyên vẹn cho đến hôm nay.
Sự tích khai lập chùa
Theo ông Đỗ Kim Long, 67 tuổi, trưởng ban Quản
lí Khu di tích Quốc gia chùa Linh Quang, có nhiều giả thuyết cho rằng chùa Linh
Quang được thành lập từ cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII do Thiền sư Nguyễn
Văn Cánh khai sáng. Đây là ngôi chùa cổ nhất tỉnh Bình Thuận và cũng là ngôi
chùa cổ có tuổi cao trên tất cả các hòn đảo của Việt Nam .
Thuở sơ khai, chùa Linh Quang chỉ là một tiểu am nằm trầm mặc trên đồi hoang
vắng. Chùa có 3 bộ kinh kệ với 13 tượng phật Quan âm bằng đồng; một tượng phật
Thích Ca bằng gỗ; 10 cỗ bồng bằng sứ; 10 cỗ bồng bằng sành; 19 đĩa sứ, 19
chén sứ.
Sau khi ngôi chùa bị cháy, nhân dân trên
đảo Phú Quý tỏ
lòng thành kính và đã bỏ công sức, của cải xây dựng lại chùa.
Đang trong quá trình xây dựng, bất ngờ tại hòn Tranh, một hòn đảo nhỏ cách đảo Phú Quý chừng 2 hải lí về phía đông nam, bỗng xuất hiện một Linh thạch (tảng đá
thần) cứ vào ngày lành tháng tốt lại nổi lên, sau đó lại biến mất. Ngư dân trên
đảo phát hiện và cho rằng đó là "tảng đá thần".Sau khi Nguyễn Ánh bị
quân Tây Sơn, Nguyễn Huệ truy đuổi và thất trận đã bôn ba đến đảo Phú Quý và chọn ngôi chùa Linh Quang
làm nơi thiền ngụ. Tại đây, Nguyễn Ánh (xưng Vương là Gia Long) đã xây dựng lại
chùa khang trang và xoay hướng ngôi chùa này theo hướng "tọa chấn hướng
đoài" như trong bát quái.
Huyền thoại linh
thiêng
Các ngư dân đã bơi thuyền sang hòn Tranh lấy đá thần về xây
chùa, tạc tượng để tôn thờ. Từ đó sự tích phật "Thiên Sanh" hình thành tại chùa, được tồn tại và
lưu truyền trên đảo cho đến hôm nay.
Trong chùa Linh Quang hiện còn lưu giữ một chiếc "đại đồng
chung" (chuông). Chuông quý này được hoà thượng Huệ Đạo đúc tại chùa Trà
Cang (Ninh Thuận) vào năm 1795. Các họa tiết hoa văn và những dòng chữ ghi lại
ấn tích trên quả chuông cho thấy nó được đúc rất công phu.
Trong chùa còn có một chiếc trống da, có tên là
trống Bát Nhã. Thân trống
là một khúc gỗ sao tròn liền thân, đường kính rộng gần 1m mà không ghép.
Những báu vật còn lưu giữ
Trong khi lúc đó công nghệ đúc đồng chưa hề phổ
biến ở miền Trung thì việc hoà thượng Huệ Đạo đem ra đảo tặng quả chuông này
cho chùa Linh Quang là
một sự ngưỡng mộ rất lớn đối với ngôi chùa này. Dù nhỏ nhưng theo vị trụ trì,
nó có tiếng kêu vang đến mức cả làng ven biển đều nghe rõ khi đêm tĩnh lặng.
Điều đó cho thấy sự kì công của hoà thượng Quảng
Thành, người làm ra nó từ đầu thế kỉ XVIII, công phu để lại một tác phẩm nghệ
thuật có giá trị cho Linh Quang tự, sau đó ông vào trụ trì ngôi chùa ở núi Tà
Cú trong đất liền.